1. Được sử dụng như một chất dẫn dụ thực phẩm để thúc đẩy quá trình ăn uống của động vật Hầu hết cá khám phá và xác định thức ăn chủ yếu thông qua thị giác, và cuối cùng là cơ sở có còn phụ thuộc vào mùi và vị hay không. Cá nhận thức được mùi và vị thông qua biểu mô khứu giác và các chồi vị giác. Biểu mô khứu giác nằm trong túi khứu giác. Có khoảng 100.000 vị giác trong cá. Có các nụ vị giác trong miệng, lưỡi, xúc tu, mang, hai bên thân và đuôi, khiến nó trở thành vị giác nhạy cảm nhất trong số các loài động vật. Dựa trên phản ứng của dây thần kinh vòm miệng trước bên trong của dây thần kinh mặt, các học giả từ Đại học Mie ở Nhật Bản đã nghiên cứu vị giác và độ nhạy của năm loài viễn thám biển đối với axit amin, betaine và nucleotide. Kết quả cho thấy các thụ thể vị giác của tất cả các loài cá đều nhạy cảm với 10-4M betaine có phản ứng này. Các học giả Israel đã sử dụng thử nghiệm hành vi để nghiên cứu tính nhạy cảm với hóa chất của tôm nước ngọt trưởng thành. Nồng độ ngưỡng của betaine đạt 10-5M-10-8 M, và hành vi thu hút động vật là ≥50%. Thêm 0,5% đến 1,5% betaine vào thức ăn cho cá có tác dụng kích thích mạnh mùi và vị của tất cả cá và động vật giáp xác như tôm và cua (Zheng Jucao và cộng sự, 1995).
Yan Xizhu (1996) báo cáo rằng khi bổ sung 0,8% và 1,0% betaine vào thức ăn, tăng trọng hàng ngày của cá rô phi lần lượt tăng 28,68% và 29,48% so với nhóm đối chứng và thời gian cho ăn được rút ngắn 1 / 3. Thử nghiệm cá chép của Cục Thủy sản quận Triều Dương, Bắc Kinh cho thấy mức tăng trọng hàng ngày của cá chép khác với nhóm đối chứng khi betaine và 0,1% hợp chất betaine được thêm vào cùng một loại thức ăn cơ bản. Mức tăng 16,5%, 17,4%, 21,5% và 34,6% cho thấy rằng việc bổ sung betaine và tác nhân hợp chất của nó vào thức ăn có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng đối với cá chép, và tác nhân hợp chất có tác dụng tốt hơn. Yan Li và cộng sự. (1994) báo cáo rằng khi bổ sung betaine vào thức ăn cho cá chép với tỷ lệ 0,3% -0,5% thì tăng trọng 41,78% -49,32% và hệ số thức ăn giảm tương ứng là 14,13% -24,16%.
Betaine không chỉ có thể cải thiện độ ngon của thức ăn, tăng lượng thức ăn của cá mà còn rút ngắn đáng kể thời gian cho ăn và giảm hệ số mồi. Yan Xizhu và cộng sự. (1996) cho thấy rằng cho cá rô phi sông Nile ăn thức ăn betaine sẽ làm tăng hoạt động của protease và amylase trong ruột và gan, điều này không chỉ cải thiện tỷ lệ sử dụng thức ăn mà còn làm giảm ô nhiễm chất lượng nước do mồi thừa. Ngoài ra, betaine có thể đẩy nhanh quá trình lột xác sinh lý của tôm và cua, có lợi cho năng suất sản xuất của tôm và cua (Nelson, 1989). Xu Zirong và cộng sự. (1998), Wang Yizhen, et al. (1999) đã tiến hành nghiên cứu trên lợn Du trưởng thành ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau. Bổ sung 1000mg / kg betaine vào khẩu phần làm tăng 13,20% tăng trọng hàng ngày của lợn đang lớn (P <0,01) và tỷ lệ chuyển hóa thức ăn tăng 7,93% (P <0,05). Tăng trọng tăng 13,3% (P <0,01). Ngoài ra, có sự khác biệt đáng kể về giới tính trong tác động thúc đẩy tăng trưởng của lợn xuất chuồng. Hiệu quả trên gà trống tốt hơn so với lợn nái. và hệ số chuyển đổi thức ăn không bị ảnh hưởng đáng kể.
2. Giảm căng thẳng và cải thiện khả năng chống lại căng thẳng của động vật Các phản ứng căng thẳng khác nhau ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc kiếm ăn và tăng trưởng của động vật thủy sản, làm giảm tỷ lệ sống, thậm chí gây chết. Betaine làm giảm hàm lượng homocysteine trong cơ thể bằng cách thúc đẩy quá trình chuyển đổi homocysteine thành methionine trong cơ thể. Homocysteine là một axit amin kích thích và là chất ức chế tổng hợp axit gamma-aminobutyric (GABA) trong não, glutamate decarboxylase (GAD) (Hammond và cộng sự, 1981). Nội dung của homocysteine có thể làm giảm sự ức chế hoạt động của GAD, có lợi cho việc tổng hợp GABA trong não, do đó tăng cường tác dụng ức chế trung tâm, do đó làm giảm căng thẳng.
Freed và cộng sự (1979) phát hiện ra rằng betaine có tác dụng chống homocysteine, pentylenetetrazole và điện giật ở chuột. Nghiên cứu dược lý của Xu Deyi et al. (1986) cho thấy betaine có tác dụng an thần rõ rệt. Hall (1995) báo cáo rằng betaine có thể làm giảm phản ứng căng thẳng của gia súc đường dài và tăng tốc độ phục hồi trọng lượng sau khi vận chuyển. Cinton (1989) đã báo cáo rằng việc bổ sung betaine vào thức ăn có thể thúc đẩy quá trình nuôi dưỡng động vật thủy sản đang bị bệnh hoặc căng thẳng. Thử nghiệm của Nelson (1991) cho thấy betaine giúp cá hồi chống lại stress lạnh dưới 10 ° C, và là phụ gia thức ăn lý tưởng cho cá ăn đông. Wang Yan và cộng sự. (1998) phát hiện ra rằng betaine giúp cá chống lại căng thẳng do vận chuyển đường dài. Wang và cộng sự. Đưa 1.000 con cá trắm cỏ sau khi vận chuyển đường dài vào ao A và ao B với cùng điều kiện. Thức ăn cho cá trắm cỏ ở ao A bổ sung 0,3% betaine và thức ăn cho cá trắm cỏ ở ao B không thêm betaine. Kết quả cho thấy A Cá trắm cỏ trong ao hoạt động trong nước, mau ăn, không thấy cá con bị chết; còn cá bột ở ao B cho ăn chậm và tỷ lệ chết là 4,5%.
3, Điều chỉnh áp suất thẩm thấu Trong trường hợp áp suất thẩm thấu thay đổi, để duy trì sự cân bằng áp suất thẩm thấu và ngăn cản nồng độ ion trong tế bào thay đổi nhanh chóng, cần phải có sự hiện diện của các chất đệm áp suất thẩm thấu. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nồng độ cao của betaine chứa trong ti thể và lục lạp đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì sự trao đổi chất bình thường của tế bào trong quá trình căng thẳng thẩm thấu.
Betaine là một chất đệm áp suất thẩm thấu hiệu quả, có thể được sử dụng như một chất bảo vệ thẩm thấu cho các tế bào, có thể cải thiện khả năng chống chịu của các tế bào sinh học đối với khô hạn, độ ẩm cao, nhiều muối và môi trường ưu trương, đồng thời ngăn chặn sự mất nước của tế bào và sự xâm nhập của muối (Ko và cộng sự, 1994), cải thiện chức năng của bơm Na-K của màng tế bào (Biggers, 1993), ổn định hoạt động của enzym và chức năng của các đại phân tử sinh học, điều chỉnh áp suất thẩm thấu và cân bằng ion của tế bào mô, duy trì chức năng hấp thụ dinh dưỡng, nâng cao áp suất thẩm thấu của tôm cá. Khả năng chống chịu trong trận đại hồng thủy (do tôm biến chất, vận chuyển cá, v.v.) và tăng tỷ lệ sống.
Virtanen và cộng sự. (1989) cho biết thêm 1,5% betaine / axit amin vào thức ăn cho cá chép có thể làm giảm hàm lượng nước trong cơ cá chép; và khi nồng độ muối vô cơ trong nước tăng lên sẽ có lợi cho việc duy trì cân bằng các chất điện giải và áp suất thẩm thấu trong cơ thể cá; Diao Xin Equal (1990) báo cáo rằng betaine có lợi cho các sinh vật biển để duy trì nồng độ muối thấp hơn trong cơ thể, bổ sung nước liên tục, đóng vai trò điều chỉnh thẩm thấu và cho phép cá nước ngọt thích nghi với việc chuyển đổi sang môi trường nước biển. Clarke (1994) báo cáo rằng thêm 1% betaine vào thức ăn của cá hồi chinook 1 tháng tuổi không có tác động đáng kể đến sự tăng trưởng và chết của cá trong nước ngọt, nhưng có thể thúc đẩy đáng kể sự phát triển của cá trong nước biển.