L-carnitine là một chất tự nhiên được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm. Nó giúp vận chuyển chất béo vào các tế bào, nơi nó được đốt cháy để lấy năng lượng. Nó cũng có thể cải thiện sức khỏe tim mạch và hỗ trợ giảm cân.
Carnitine bổ sung có sẵn ở các dạng khác nhau, nhưng dạng acetyl L-carnitine có tỷ lệ hấp thụ tốt nhất. Nó thường được sử dụng trong các chất bổ sung thể thao do lợi ích của nó đối với thành tích thể thao và hỗ trợ đốt cháy chất béo.
Những lợi ích
Carnitine giúp tăng lượng calo mà cơ thể bạn đốt cháy trong quá trình tập luyện. Điều này là do carnitine vận chuyển chất béo vào ty thể để sử dụng làm nhiên liệu. Nó cũng làm giảm sự tích tụ axit lactic trong cơ bắp sau khi tập thể dục cường độ cao, có thể gây đau và mệt mỏi.
Người lớn tuổi ăn ít thịt hoặc các sản phẩm từ sữa có thể bị thiếu carnitine. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, việc bổ sung carnitine làm tăng lượng chất béo bị đốt cháy khi tập thể dục cường độ vừa phải.
L-carnitine làm giảm các triệu chứng suy tim mãn tính ở những người có tiền sử đau thắt ngực và cải thiện chức năng tim. Điều này có thể là do đặc tính chống oxy hóa của nó, giúp trung hòa các gốc tự do có hại. Nó cũng làm tăng sản xuất peptide lợi niệu natri trong não, một dấu hiệu cho thấy sức khỏe của tim được cải thiện.
Các chất bổ sung Carnitine đã được chứng minh là làm giảm sự hao mòn cơ bắp ở những người đang hồi phục sau bệnh ung thư hoặc những người đang hóa trị. Tuy nhiên, nghiên cứu thêm là cần thiết. Một nghiên cứu ban đầu cho thấy propionyl tiêm tĩnh mạch
L-carnitine giảm mức độ nghiêm trọng của sự mệt mỏi liên quan đến ung thư và cải thiện chất lượng cuộc sống ở những người sống sót sau ung thư (102). Các nghiên cứu khác không tìm thấy lợi ích từ việc bổ sung carnitine bằng đường uống (107). Một số nghiên cứu cho thấy rằng acetyl L-carnitine tốt hơn giả dược trong việc giảm mệt mỏi liên quan đến ung thư và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Phản ứng phụ
L-carnitine làm tăng mức độ đốt cháy chất béo và năng lượng trong cơ bắp. Nó làm giảm nồng độ lactate và pyruvate trong máu khi tập thể dục và tăng cường phục hồi sau khi tập thể dục. Trong một nghiên cứu, một nhóm bệnh nhân hoạt động giải trí dùng 3000 mg carnitine mỗi ngày trong bảy tuần đã giảm đau cơ và nồng độ creatinine kinase.
Carnitine cũng vận chuyển các axit béo chuỗi dài vào ty thể, nơi chúng bị oxy hóa để sản xuất năng lượng. Nó làm giảm viêm, giảm stress oxy hóa và có thể làm giảm mức chất béo trung tính ở bệnh nhân mắc bệnh tim. Nó cũng ngăn ngừa sự tích tụ este của axit béo trong các sự kiện thiếu máu cục bộ, làm giảm nguy cơ rối loạn nhịp thất gây tử vong.
Carnitine đã được đề xuất để giúp điều trị chứng suy nhược, một hội chứng phổ biến ở người cao tuổi. Rối loạn này được đặc trưng bởi giảm cân không chủ ý, suy nhược, kiệt sức, chậm chạp và giảm khả năng thực hiện các hoạt động hàng ngày. Tuy nhiên, nghiên cứu về tiềm năng sử dụng carnitine này còn hạn chế. Một số nghiên cứu đã báo cáo rằng việc bổ sung carnitine vào phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho bệnh suy tim sẽ cải thiện các biện pháp đo lường khả năng hoạt động của tim và có thể làm giảm tỷ lệ tử vong.
liều lượng
Carnitine không được tế bào ruột hấp thụ hoặc không được tái hấp thu từ phân sẽ bị phân hủy thành hai sản phẩm chính là trimethylamine và g-butyrobetaine. Loại thứ hai được bài tiết qua phân; cái trước được chuyển hóa thành acetyl L-carnitine, một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng.
Carnitine bổ sung đang được nghiên cứu trong một số tình trạng sức khỏe, bao gồm bệnh Alzheimer và chứng mất trí nhớ (xem bài viết về Acetyl L-Carnitine), bệnh tim mạch và bệnh động mạch ngoại vi, kháng insulin và tiểu đường, vô sinh, viêm xương khớp và nâng cao thành tích thể thao. Nó có thể làm tăng tiêu hao năng lượng và giảm đau nhức cơ bắp khi tập thể dục cường độ cao.
Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với giả dược ở những đối tượng hoạt động giải trí, việc bổ sung carnitine (4 g/ngày bằng đường uống) đã cải thiện các biện pháp kháng insulin và tăng thời gian mệt mỏi trên máy đo công suất chu kỳ, độ bền và khả năng hấp thụ oxy tối đa (VO2max). Nó cũng làm giảm sự tích tụ lactate và cải thiện cảm giác gắng sức trong khi tập thể dục. Một nghiên cứu gần đây hơn ở những người trưởng thành được xác định là "suy yếu trước" cho thấy rằng carnitine bổ sung làm giảm Chỉ số suy nhược và điểm kiểm tra khả năng nắm tay khi so sánh với giả dược.
nguồn
Carnitine là một chất dinh dưỡng giúp vận chuyển chất béo vào tế bào để đốt cháy năng lượng. Nó được sản xuất tự nhiên trong cơ thể và cũng có sẵn như là một chất bổ sung chế độ ăn uống. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng carnitine bổ sung có thể cải thiện sức bền, tăng cường đốt cháy chất béo và nâng cao thành tích thể thao. Nó cũng bảo vệ chống lại tổn thương cơ và cải thiện chức năng não.
Carnitine có trong các sản phẩm động vật, đặc biệt là thịt đỏ và thực phẩm từ sữa. Rau và ngũ cốc cung cấp một lượng rất nhỏ carnitine. Trong cơ thể, Carnitine được tạo ra từ các axit amin methionine và lysine trong một quá trình nhiều bước liên quan đến một số ngăn tế bào. Methionine được methyl hóa thành e-N-trimethyllysine bởi methyltransferase, và hợp chất này được chuyển thành carnitine trong gan và cơ xương bằng quá trình thủy phân protein.
Methionine và lysine cũng có thể được lấy từ các nguồn thực phẩm, chẳng hạn như bánh mì nguyên hạt, ngũ cốc, bột yến mạch, đậu, hạt điều, đậu phộng, phô mai và trứng. Carnitine bổ sung đôi khi được sử dụng như một biện pháp hỗ trợ giảm cân vì nó có thể giúp vận chuyển chất béo vào tế bào nơi chúng được đốt cháy để lấy năng lượng.